Tác giả: Lê Tuấn Huy
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2015/11/22/du-nhap-phat-giao-anh-huong-tk-10-14/
Phật giáo là một trào lưu triết học – tôn giáo xuất
hiện vào khoảng cuối thế kỷ thứ 6 TCN ở bắc Ấn Độ. Người sáng lập
ra hệ thống triết học – tôn giáo này là Tất Đạt Đa (Siddhatha), thái
tử của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thuộc bộ tộc Sakiya. Vị thái tử
này (khoảng 563-483 TCN) đã từng theo học các tu sĩ Bà La Môn từ năm
lên bảy, kết hôn năm 16 tuổi, mười ba năm sau đó sống trong cuộc đời
vương giả, nhưng trong một đêm tháng Hai năm vừa tròn 29 tuổi, đã lặng
lẽ rời hoàng cung đi tìm chân lý. Trải qua sáu năm với những phương
pháp tu luyện ép xác nhưng không đạt được chánh đạo, nhưng chỉ sau 48
ngày nhập định, Tất Đạt Đa ngộ rõ căn nguyên sinh thành, biến hóa
của vũ trụ, căn nguyên của những khổ đau, và đề ra phương pháp diệt
trừ nỗi khổ đó cho chúng sinh, bằng học thuyết “Nhân duyên sinh” và
triết lý “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân duyên”, “Bát chánh đạo”. Con
người này đã đưa ông trở thành đức Phật Thích Ca đầy uy nghiêm tinh
thần trong đời sống của người phương Đông hết thế hệ này đến thế hệ
khác.
Giáo lý nhà Phật tuy có nhiều tông phái khác nhau,
nhưng tựu trung những điểm được đề cập sau đây vẫn là những nền tảng
cơ bản.
Thế giới, vũ trụ, theo quan niệm Phật giáo, là luôn
vận động, biến đổi, các biến đổi diễn ra nhanh như chớp mắt, và thế
giới thì không có trước, không có sau, vô thủy, vô chung. Đó cũng
chính là lẽvô thường, tức không có gì là tồn tại cố định, mà có
đó, mất đó. Con người cũng thuộc dòng chảy không ngừng đó, nên không
gì là bản thân ta cả, tức vô ngã. Những biến đổi này, nói theo ngôn
ngữ hiện đại, là do tự thân vận động, không xuất phát từ bên ngoài,
mà từ lẽ nhân duyên, theo luật nhân quả, nghiệp báo. Tùy thuộc vào
nghiệp báo mà biến đổi của các sinh linh diễn ra trong cõi phàm và
siêu phàm, hoán chuyển từ cõi này sang cõi kia, đó là luân hồi.
Nhân sinh quan Phật giáo xuất phát từ quan niệm cho
rằng đời là bể khổ, và nguyên nhân của nó là sinh, lão, bệnh, tử,
là những ham muốn nhục dục, xuất phát từ sự che lấp trí tuệ bởi
ngũ uẩn(sắc, thụ, tưởng, hành, thức), làm cho ta cố chấp trong việc
phân biệt cái ta và cái khác ta, dẫn đến thái độ “ngã chấp”, trọng
cái ta, khiến con người ta vô minh. Muốn thoát khỏi bể khổ thì phải
diệt dục, nhẫn nhục, từ bi, hỉ xả, hy sinh, đi theo con đường của bát
chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh
mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định.
Những giáo lý mang nặng tính triết lý, đạo đức này
đã có một ảnh hưởng sâu rộng lên phong tục, tập quán, văn hóa, văn
minh của nhiều dân tộc, trong đó có Việt Nam ta.
1. Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta
1.1. Nguồn gốc nguyên thủy từ Ấn Độ của Phật giáo
Việt Nam
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước
căn bản đầu tiên thật ra không phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính
là được truyền sang trực tiếp từ Ấn Độ. Dựa trên những chứng liệu
lịch sử đáng tin cậy, một số nhà nghiên cứu chuyên sâu, có uy tín về
Phật giáo đã khẳng định điều này [1].
Quốc gia Âu Lạc đã bị Nam Việt của Triệu Đà thôn
tính vào năm 179 TCN, và lập thành quận Giao Chỉ. Năm 110 TCN, Nam Việt
trở thành nội thuộc của nhà Hán, Giao Châu theo đó mà cũng quy về,
và được chia thành hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân.
Trên lãnh thổ của nhà Hậu Hán, sau đó đã tồn tại
ba trung tâm Phật giáo là Luy Lâu, Lạc Dương và Bành Thành. Sử liệu
cổ của Trung Hoa cũng không ghi nhận được rõ ràng sự hình thành của
hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành, chỉ có Luy Lâu thuộc Giao Chỉ
là được xác định rõ ràng và sớm nhất, và còn là bàn đạp cho việc
hình thành hai trung tâm kia.
Từ nửa sau thế kỷ thứ hai, Luy Lâu đã tồn tại như
một trung tâm Phật giáo quan trọng và phồn thịnh. Điều này cho thấy
việc du nhập Phật giáo vào Giao Châu là rất sớm, có lẽ từ đầu công
nguyên.
Vào đầu công nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương
mạnh mẽ với Trung Đông, và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ
cần có một nguồn cung cấp nguyên vật liệu, vật phẩm cho sự giao
thương này. Họ giong buồm, theo gió mùa tây nam mà đi về đông. Họ đến
Giao Chỉ, rồi có thể từ Giao Chỉ mà lại theo tiếp đường biển hay
đường bộ vào trong nội địa Trung Hoa. Trong khi đợi gió mùa đông bắc
để quay về Ấn, sự lưu trú của số thương gia này đã lan truyền dần
những nét văn hóa Ấn Độ, trong đó có việc thờ cúng Phật, tụng kinh…
Những tăng sĩ mà các thương nhân đem theo trên thuyền buôn nhằm làm công
việc cầu khấn sự phù trợ của đức Phật, là những người đã trực
tiếp truyền bá Phật học và lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu.
Một số chứng liệu, lập luận đáng chú ý khác cũng
củng cố nguồn gốc khởi thủy sớm sủa từ Ấn Độ của Phật giáo Việt
Nam so với Phật giáo Trung Hoa. Theo đó thì vào thời kỳ nhà Hán,
Khổng và Lão giáo, đặt biệt là Khổng giáo, đã rất mạnh, giới trí
thức Khổng, Lão đã chống lại Phật giáo, một luận thuyết tỏ ra khá
xa lạ với những chuẩn mực đạo đức, xã hội của Khổng, Lão. Do đó
mà Phật giáo rất khó để có thể thâm nhập. Người Hán muốn đưa Phật
giáo vào, sau đó đã phải mượn thuyết “hóa Hồ” để dễ dàng hơn trong
việc thực hiện công việc này [2] . Trong khi đó, ở Giao Châu, Phật
giáo xem ra rất phù hợp với tín ngưỡng dân gian, nên việc thâm nhập
không gặp trở ngại, mà lại còn dễ dàng và nhanh chóng.
Vào thời đó, dù từ Trung Hoa đã có con đường bộ đi
đến Ấn gần hơn đường biển, nhưng con đường xuyên qua Trung Á lại chứa
đựng nhiều hiểm nguy, và đường biển lại là con đường an ninh hơn,
không có núi non, sa mạc, hay cướp bóc, giết chóc. Bằng chứng là vào
đầu thế kỷ thứ tư, con đường bộ đã dễ đi hơn, nhưng đến cuối thế kỷ
này, Pháp Hiển mới từ Trung Hoa sang Ấn, và đến tận thế kỷ thứ
bảy, Huyền Trang đã phải trải qua không biết bao nhiêu gian nan mới đi
trọn vẹn con đường.
Ngoài ra còn có hai chứng liệu rất quan trọng cho
nguồn gốc rất sớm của Phật giáo Việt Nam. Thứ nhất, tập luận
thuyết Phật giáo đầu tiên bằng Hán tự, Lý hoặc luận của Mâu Tử
(165? 170? -?) đã được viết ở Giao Chỉ, chứ không phải ở một nơi nào
khác sâu trong nội địa Hán. Thứ hai, vào thế kỷ thứ hai, ở Giao Chỉ
đã có một tăng đoàn đến 500 vị và khoảng 15 bộ kinh, trong khi đến
thế kỷ thứ ba ở Hán mới có tăng đoàn.
1.2. Phật giáo ở giai đoạn đầu du nhập vào Việt Nam
Như trên đã nói, khởi thủy du nhập của Phật giáo
vào Việt Nam là từ Ấn Độ, Qua các đoàn thuyền buôn mà người Ấn đã
đem vào nước ta những sinh hoạt và giáo lý Phật giáo.
Trên đất Giao Chỉ vốn đã hình thành một nền tín
ngưỡng bản địa. Đối với người dân nơi nàỵ, Ông Trời là một đấng ở
trên cao, thấu hiểu mọi việc, biết rõ người tốt kẻ xấu, từ đó mà
phù giúp người hiền, trừng phạt kẻ ác. Quan niệm này khiến cư dân
Giao Chỉ dễ tiếp nhận thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật.
Ngoài Ông Trời, họ cũng quan niệm có những vị thần thánh khác như
Thần Sấm, Thần Mưa… như là những thủ hạ của Ông Trời. Họ cũng coi Ma
Xó là linh hồn của người chết còn tồn tại quẩn quanh trong nhà để
phù trợ cho gia đình. Điều này làm cho họ cảm thấy dễ gần gũi khi
thuyết luân hồi tiếp xúc với họ. Người Giao Chỉ cũng tin vào nguồn
gốc con rồng cháu tiên của mình. Thêm vào đó, trong thời đại lịch sử
này, người Giao Chỉ không hề là những tín đồ trung kiên của Khổng,
Lão giáo, nên sự thâm nhập của Phật giáo không gặp phải sự cản trở
có ý thức.
Sự hòa hợp giữa tín ngưỡng bản địa có sẵn với
những sinh hoạt văn hóa, giáo lý cơ bản của Phật giáo đã hình thành
nên một loại tín ngưỡng Phật giáo bình dân trong thế kỷ đầu tiên của
công lịch.
Người Giao Chỉ xưa quan niệm Phật như là một vị Bụt
(xuất phát từ “Buddha”), có phép thần thông, nghe và biết mọi chuyện
như Ông Trời, nhưng Bụt không ở trên cao, mà thân cận với mọi người.
Bụt hiện ra dưới nhiều hình thức để cứu người, giúp đời. Bụt thương
người nhưng không trừng phạt kẻ ác như Ông Trời vẫn làm. Phép Bụt là
biểu hiện của quan niệm về Pháp trong thời kỳ này. Đó là phép thần
thông của Bụt. Mà cũng là những điều người ta làm theo nếu tin vào
Bụt, như đọc tam quy, cúng dường, bố thí… Pháp cũng là niềm tin vào
nghiệp báo, luân hồi, linh hồn bất diệt. Quan niệm về Tăng khi đó chỉ
dừng lại ở tăng môn, chưa phải tăng đoàn. Đó là những tu sĩ khoác áo
vàng. Đầu cạo trọc, rời bỏ gia đình, của cải, thờ Bụt, đọc kinh
Phạn. Quan niệm về nghiệp báo, luân hồi là ở sự làm lành gặp lành.
Người ta cũng quan niệm về từ bi, về công đức. Làm công đức cho kiếp
sau được tốt đẹp là dâng thức ăn cho tăng môn, bố thí cho người nghèo
khó. Quan niệm tiết dục cũng là ở chỗ bỏ bớt những hưởng thụ cho
riêng mình, để cho người khốn khó.
Vào thế kỷ thứ hai, sự thâm nhập của Phật giáo đã
ở vào một giai đoạn mới. Đã hình thành tăng đoàn, công việc hành
đạo từ đó mà cũng đi vào tổ chức, các tăng sĩ bắt đầu dịch kinh,
sáng tác, chùa chiền cũng đã được xây cất. Ở thế kỷ này, sự hành
đạo cũng gặp một ít trở ngại từ phía những người ủng hộ Khổng,
Lão. Tuy nhiên, điều đó không thể ngăn cản được ảnh hưởng của Phật
giáo vì nó đã thâm nhập vào dân gian.
Tích Quang và Nhâm Diên là hai thái thú của hai quận
Giao Chỉ và Cửu Chân. Hai người này đã đẩy mạnh việc truyền bá văn
hóa Hán cả trong sinh hoạt kinh tế, phong tục tập quán, lẫn trong
việc giáo dục, văn học. Đến đời thái thú Sĩ Nhiếp thì Hán học
phát triển rất mạnh, nhưng chính điều này lại đóng vai trò lớn trong
việc truyền bá tư tưởng, văn hóa Phật giáo. Việc ra đời của Lý hoặc
luận, hay kinh Tứ thập nhị chương, những tác phẩm Phật học viết bằng
Hán tự, là minh chứng cho điều này.
Những kinh điển đầu tiên được phiên dịch (như Tứ thập
nhị chương) là đã nhắm vào người xuất gia, chứ không phải vào quần
chúng Phật tử trong dân gian, do xuất phát từ một thực tế là sự du
nhập và định hình Phật giáo giai đoạn này đã mang tính học thuật
chuyên sâu hơn. Điều này cũng được thể hiện thông qua hệ thống quan
niệm giáo lý đã mang nhiếu nét kinh kệ hơn trước.
Quan niệm về Phật thì vẫn nối tiếp tín ngưỡng bình
dân về Phật trong thế kỷ trước, nhưng đã mang màu sắc Hán hơn khi
những khái niệm của Khổng, Lão được đưa vào. Trong Lý hoặc luận,
Phật đã được trình bày như nguyên tổ của Đạo và Đức nhưng vẫn mang
màu sắc biến hóa thần thông. Về Pháp, giới Phật tử trí thức có
cách quan niệm gần với “đạo” (sau thành “đạo pháp”). Trong giới Phật
tử dân dã, pháp vẫn là phép Phật, là phép tam quy, ngũ giới, cúng
dường. Tăng đồ thì coi đạo như lời Phật dạy về vô thường, vô ngã,
cách giữ tâm gìn ý, tu chứng Niết bàn. Quan niệm về tăng là phải
thực hiện 250 giới luật, cạo đầu, y vàng, từ bỏ tài sản, khất
thực, hóa đạo. Ni giới chưa có vào lúc này.
Vào thời kỳ này, Niết bàn đã là mục đích của
người xuất gia. Luân hồi và nghiệp báo vẫn tiếp tục tồn tại trong
tín ngưỡng dân gian. Quan niệm vô ngã đã được nói đến trong Tứ thập
nhị chương, nhưng chưa phổ biến lắm trong trong dân gian, có lẽ vì bị
xem như mâu thuẫn với quan niệm linh hồn bất tử.
Tinh thần hòa đồng giáo lý là nét nổi bật trong sự
du nhập và định hình Phật giáo Giao Châu trong thế kỷ thứ hai này.
Phật giáo thâm nhập vào đây một cách êm thấm, không có sự chống đối
của tín ngưỡng dân gian. Tuy Phật giáo cũng phải có một ít nỗ lực
trước giới cai trị Hán tộc, nhưng không bằng sự phản kháng, mà bằng
sự hòa đồng. Điều này xuất phát từ tinh thần cởi mở của Phật học,
và Phật tử thì sẵn sàng học hỏi, đối thoại với những tư tưởng
khác. Kết quả của tinh thần này là không những đã sử dụng được từ
ngữ Nho, Lão để truyền bá Phật giáo, mà còn làm cho nghững người
theo Khổng, Lão thấy được chiều sâu của Phật học.
1.3. Sự du nhập từ Phật giáo phương Bắc
Từ thế kỷ thứ ba, Phật giáo tại Giao Châu vẫn tiếp
tục tự phát triển mạnh mẽ, với sự xuất hiện củaTăng Hội (? – 280)
và tư tưởng thiền của ông. Ông không những là sáng tổ của Thiền học
Việt Nam, mà còn là người đầu tiên đem thiền học phát huy ở Trung Hoa
(Tăng Hội đã ở trên đất Ngô từ năm 255 đến 280).
Thiền định Việt Nam, từ nguyên thủy vốn không phải
được truyền từ Trung Hoa sang. Nó đã xuất hiện, dù có thể hoàn toàn
là bước đầu, ở Giao Chỉ, từ trước Tăng Hội. Trong Tứ thập nhị
chương, danh từ thiền định đã một lần được nhắc đến. Kinh này còn
nói đến “quán thiên địa, niệm vô thường”, là một phép thiền, gọi là
Vô thường quán. Nhưng dù sao, đến thế kỷ thứ ba, có lẽ đã có một
thực tế là Phật giáo từ phương Bắc, cho dù có hình thành những trung
tâm muộn hơn, cũng đã bắt đầu có ảnh hưởng trở lại lên Phật giáo
Giao Chỉ. Cho dù Tăng Hội có một vai trò lớn đến đâu thì sử sách
cũng ghi nhận rằng trong thế kỷ này, các kinh sách về thiền đã được
đem từ Lạc Dương xuống, và Tăng Hội cũng là một người đã học tập,
lĩnh hội được tư tưởng Phật giáo Đại thừa Trung Hoa.
Đại thừa (Mahayana) hoàn toàn không xa rời Phật pháp,
nhưng về chủ trương, nó khác với Tiểu thừa (Hinayana) vốn xuất phát từ
Phật giáo Nguyên thủy (Thérévada). Đại thừa không cố chấp vào kinh
điển, trong khi Tiểu thừa thì phải nhất nhất bám sát vào đó. Đại
thừa chủ trương “tự giác” và “giác tha”, tức giác ngộ cho chính mình
và cho người khác, trong khi Tiểu thừa chỉ nhắm vào việc giác ngộ
cho bản thân. Tiểu thừa chỉ thờ một Phật Thích Ca và bậc tu cao nhất
là đến La Hán. Đối với Đại thừa, họ thờ nhiều Phật, và bậc tu cao
nhất lên đến Bồ Tát. Có thể nói những quan niệm, chủ trương của Đại
thừa – một trong những tông phái lớn nhất của Phật giáo (một tông
phái lớn khác là Kim Cang thừa) có xuất phát điểm từ Trung Hoa, đã
có một sự thâm nhập mạnh mẽ xuống phương Nam kể từ thế kỷ thứ ba
trở đi, để lại những dấu ấn phổ biến trong sinh hoạt Phật giáo,
cũng như trong tín ngưỡng dân gian.
Sự thâm nhập của Phật giáo phương Bắc sau đó còn
được thể hiện ở việc các thiền sư lớn, những người sáng lập ra
những thiền phái có vị trí lớn trong lịch sử Phật giáo Việt Nam,
đều ít nhiều có liên hệ và tiếp thu Phật giáo Trung Hoa.
Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi (?-594), người sáng lập ra
thiền phái mang tên ông, truyền đến 19 đời, đến đầu thế kỷ 13, là
một người gốc nam Thiên Trúc, vân du về phía đông bắc (562), tiếp xúc
với Phật giáo Trung Hoa và hành đạo tại đây, đến năm 580 thì vào
nước ta.
Năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông từ nội địa Trung Hoa
xuống Giao Châu và sáng lập thiền phái này.
Sau này, vào thế kỷ 11, Thảo Đường vốn cũng là một
thiền sư Trung Hoa đang hành đạo tại Chiêm Thành, bị quân chinh phạt
của vua Lý Thái Tông bắt đem về Thăng Long. Sự uyên thâm Phật pháp của
người này sau đó được nhận ra, được nhà vua đưa về trụ trì tại chùa
Khai Quốc, và lập ra một thiền phái lớn của Phật giáo Việt Nam,
thiền phái Thảo Đường.
Tuy nhiên, ở đây, khi nói về sự du nhập của Phật
giáo vào Việt Nam, ta có thể xem việc này đã cơ bản hoàn tất trước
thế kỷ thứ 10, khi mà một mặt có sự du nhập trực tiếp từ Ấn Độ
cộng với sự ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa từ phương Bắc sau đó,
mặt khác là sự sản sinh, hình thành nền thiền học Việt Nam với
những thiền phái đầu tiên nhưng lại rất lớn mạnh. Từ đây đã tạo một
tiền đề vững vàng cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam về sau,
mà đỉnh điểm là giai đoạn thế kỷ 10 – 14.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo lên xã hội Việt Nam trong giai
đoạn lịch sử thế kỷ 10 – 14
2.1. Bối cảnh, diễn tiến lịch sử
Ở Trung Hoa, vào năm 618, Lý Uyên lên ngôi, lập ra nhà
Đường, và từ đây lịch sử nước ta lại tiếp tục với 300 năm thuộc
Đường. Sau các cuộc khởi nghĩa ở những thời kỳ trước, như khởi
nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), Lý Bí tuyên bố dựng nước Vạn Xuân (544),
thời này các cuộc khởi nghĩa nhằm giành lại độc lập dân tộc vẫn
tiếp tục nổ ra. Phùng Hưng khởi nghĩa năm 766-779, Dương Thanh năm
819-820. Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ (905) với kết quả là
người phương Bắc mất quyền thống trị, nhưng họ Khúc cũng chỉ tự xưng
là Tiết độ sứ, nhằm tạo một quan hệ an hòa với những kẻ thống trị
cũ. Sự kiện này đã mở ra thời kỳ bắt đầu khôi phục nền độc lập.
Tháng 12 năm 938, Nam Hán lại một lần nữa dẫn đại
binh bằng đường thủy tiến vào nước ta hòng khôi phục ách thống trị.
Đội quân này đã chuốc lấy thảm bại trên sông Bạch Đằng trước tài mưu
lược của Ngô Quyền. Đây xem như cột mốc chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ
của ngoại bang hơn 1.000 năm, mở ra kỷ nguyên độc lập lâu dài cho dân
tộc.
Ngô Quyền xưng vương năm 939 và mất năm 944. Các con
của Ngô Quyền không đủ khả năng cai trị một nhà nước trung ương tập
quyền, loạn mười hai sứ quân diễn ra. Đinh Bộ Lĩnh là người đã quy
giang san về một mối. Năm 968, ông lên ngôi, xưng hoàng đế hiệu là Đinh
Tiên Hoàng, lập nước Đại Cồ Việt. Nhưng chỉ mười năm sau đó, triều
đình nhà Đinh lại xâu xé nhau trong khi nhà Tống ở phía bắc lại động
binh nhắm về nam. Năm 980, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi, xưng là
Lê Đại Hành, lập nên nhà Tiền Lê.
Tháng 4 năm 981, đại quân Tống bị đánh bại. Năm 982,
Lê Hoàn chinh phạt Champa, giữ yên và củng cố biên giới phía nam.
Thời đại Đinh – Tiền Lê đã được tổ chức mô phỏng
theo triều nghi nhà Tống, nhưng bộ máy còn rất sơ sài, chưa phải là
một nhà nước phong kiến mực thước.
Năm 1005, Lê Hoàn mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi cùng với sự
cai trị tàn ác, sa đọa, không có khả năng dẫn dắt quốc gia. Lê Long Đĩnh
mất năm 1009, cuộc vận động của quần thần và tăng sư sau đó đã đưa
Lý Công Uẩn lên ngôi. Từ đây, thời kỳ của một nhà nước phong kiến có
quy củ hơn bắt đầu.
Bộ máy chính quyền nhà Lý đã được xây dựng theo mô
hình nhà Tống, chia cả nước làm hai mươi bốn lộ-phủ, dưới là huyện,
hương. Bộ máy quân đội được xây dựng từ trung ương đến địa phương, có
cả bộ binh và thủy binh. Nhà Lý cũng là vương triều Việt Nam đâu tiên
ban hành luật thành văn, với việc ra đời của bộ Hình thư gồm hai mươi
quyển vào năm 1042. Địa giới tiếp tục được mở rộng về phía nam.
Từ giữa thế kỷ 12, nhà Lý bắt đầu suy vong, các vị
vua trẻ lao vào vui chơi, tửu sắc, gian thần lộng hành. Đầu thế kỷ 13
đã diễn ra hỗn chiến giữa các thế lực phong kiến địa phương, trong
đó thế lực của Trần Tự Khánh là mạnh hơn cả. Và ông ta đã đem quân
về Thăng Long. Sau khi Trần Tự Khánh chết, mọi quyền hành nằm trong
tay Trần Thủ Độ. Năm 1225, con người này đã ép Lý Huệ Tông nhường
ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới bảy tuổi. Năm sau, Lý Chiêu
Hoàng lại “nhường ngôi” cho chồng là Trần Cảnh, tám tuổi. Nhà Trần
được lập nên từ đây.
Dưới nhà Trần, vương quyền càng được củng cố hơn,
quan chế càng quy củ hơn. Hai mươi bốn lộ dưới thời nhà Lý, nay còn mười
hai. Quân đội càng được xây dựng mạnh hơn, thiện chiến hơn. Một nền
pháp luật hoàn chỉnh hơn cũng đã được xây dựng. Năm 1230, Trần Thái
Tông san định Quốc triều thông chế gồm hai mươi quyển. Năm 1341, đã biên
soạn Hoàng triều đại điển và khảo đínhHình thư. Xã hội đã có một
thời kỳ thật sự cường thịnh.
Nhưng vào nửa sau thế kỷ 14, xã hội Đại Việt lại
khủng hoảng. Triều đình rơi vào sa đọa, tham nhũng, tửu sắc, cờ bạc.
Bên ngoài thì Champa lại gây hấn. Hồ Quý Ly, con rể của Trần Minh Tông
dần nắm mọi chức vụ quan trọng, từng bước loại trừ, sát hại tông
thất. Năm 1400, Hồ Quý Ly ép Trần Thiếu Đế nhường ngôi, lập nên nhà
Hồ (1400-1407)
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo lên các mặt chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội
2.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo dười thời Đinh, Tiền
Lê
Dưới chính sách đô hộ hà khắc của nhà Đường, việc
học hành của quần chúng bị hạn chế, kẻ sĩ ngoài đời thì vốn đã
không nhiều lại còn bị dòm ngó, răn đe. Vì thế, do vốn đã thâm nhập
sâu trong đời sống dân gian, một cách tự nhiên, trách nhiệm xã hội
được đặt lên vai giới tăng sĩ Phật giáo. Họ, ngoài việc hướng dẫn
tinh thần, đạo đức, còn trực tiếp lo toan những công việc thuộc nhu
cầu thực tế của dân chúng. Họ mở lớp dạy chữ ở chùa cho mọi con
em, như trường hợp của Lý Công Uẩn đã từng nhận được sự giáo dục
nơi cửa chùa. Chính tại đây họ đã nuôi dưỡng ý thức dân tộc, lòng
yêu nước cho nhiều thế hệ thanh thiếu niên, không để nó bị mai một,
bị “mất gốc” sau hàng trăm năm Bắc thuộc. Họ không phải là những
thầy lang nhưng lại có kiến thức y dược, trực tiếp chuẩn trị, hốt
thuốc cho mọi người. Họ đứng ra làm các công việc cầu an, ma chay,
chọn đất, chọn ngày cho việc xây cất, khai trương làm ăn… Giới tăng sĩ
vốn là thành phần có học thức, lại không thuộc thành phần thống
trị, gần gũi với dân chúng, nên có được sự cảm thông, chia sẻ nỗi
khổ của người dân trong cảnh đô hộ. Và từ đó nhà chùa đã thực sự
trở thành nơi hun đúc lòng yêu nước, một trung tâm của ý thức và
niềm tin vào độc lập dân tộc, có sức ảnh hưởng rộng khắp trong dân
gian. Ngay trong thời kỳ tiền độc lập, Phật giáo đã đóng một vai trò
rất lớn về mặt tinh thần, ý chí trên bước đường đấu tranh của dân
tộc.
Sau Ngô Quyền, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý đã nỗ
lực xây dựng một quốc gia độc lập về mọi mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, quân sự, và đóng góp của Phật giáo trong buổi đầu này rất
quan trọng.
Vào thời Đinh, Lê, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã
truyền đến đời thứ 11, 12, và ảnh hưởng của họ trong dân gian vẫn
rất mạnh. Những thiên chức xã hội mà nhà Phật đã gánh vác trong
những thế kỷ vừa qua, nay vẫn tiếp tục. Mặt khác triều đình cũng
biết trọng dụng họ, xem những cao tăng uyên bác như những cố vấn, có
thể bàn luận, giải quyết những vấn đề chính sự.
Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi vốn mang nhiều yếu tố
Mật giáo. Mật giáo quan niệm trong vũ trụ có một lực lượng siêu
nhiên mà nếu biết sử dụng, người tu hành sẽ bước mau trên con đường
thành đạo, có thể là tức thời. Mật giáo chú trọng cúng bái, thần
chú, ấn quyết. Thêm vào đó, sấm vĩ, phong thủy cũng là một yếu tố
của Phật giáo Việt Nam trong một thời kỳ dài. Sấm vĩ là sự suy
trắc về tương lai trên cơ sở âm dương, ngũ hành tương khắc. Phong thủy
là môn thuật xem xét địa thế trong tương quan với thành bại, vận mệnh
của công việc, con người, quốc gia, trên cơ sở sự sắp xếp tinh tú trên
bầu trời và “long mạch” trên mặt đất. Chính sự kết hợp của Mật
giáo, sấm vĩ, phong thủy đã đẩy mạnh vai trò xã hội của Phật giáo
trong những thế kỷ trước khi giành được độc lập, và ngay cả ở buổi
đầu của kỷ nguyên này.
Sự thực hành, trì chú Mật giáo rất phổ biến ở
thời Đinh và Tiền Lê. Vào năm 1965, tại làng Trường Yên thuộc kinh đô
Hoa Lư cũ, đã tìm thấy một bia đá dựng vào năm 973, nhà Đinh, khắc
những câu kệ và chú Đà La Ni. Cũng đã phát hiện một kinh tạng dựng
năm 995 thời Lê Đại Hành, với một bài kệ có nhắc đến “Phật đỉnh Đà
La Ni”.
Sách sử cũng ghi lại rằng thuở đầu lập quốc, các
thiền sư đã mở những cuộc vận động gây ý thức quốc gia. Họ đã sử
dụng những môn thuật sấm vĩ và phong thủy trong các cuộc vận động
này, như “tuyên truyền” những sấm vịnh về nền độc lập dân tộc lâu
dài, về vận số của một triều đại, về long mạch quốc gia và sự trù
ếm nó của người Hán tộc phương Bắc nay đã được khai thông…
Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng đã – lần đầu tiên trong
lịch sử Phật giáo Việt Nam – phân định giáo tầng cho tăng sĩ, và ban
chức Tăng thống cho sư Ngô Chân Lưu của phái Vô Ngôn Thông. Thiền phái
này chủ trương “đốn căn” ở những người có căn cơ lớn về trí tuệ và
hành đạo, có thể đắc đạo nhanh, tức thời. “Tâm địa” là “nền đất”
mà một khi tâm khai thông được thì trí tuệ giác ngộ tự nhiên xuất
hiện. Vô Ngôn thông cũng chủ trương “vô đắc”, tức không chấp bản thân,
mục đích giác ngộ hay là sự giác ngộ là gì. Ngô Chân Lưu trở thành
Khuông Việt Đại Sư, và vua Đinh cũng đã chính thức xem Phật giáo như
là những nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho chính sự. Cũng trong thế kỷ
thứ 10, vua Lê Đại Hành đã mời các sư Pháp Thuận (? – 991), Vạn Hạnh
(? – 1108) làm cố vấn chính sự. Cả Khuông Việt và hai vị sau đều
tiếp tục giúp vua Lý Thái Tổ sau này.
2.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo dưới thời nhà Lý
Vào thời đại nhà Lý, Phật giáo vẫn tiếp tục giữ
một vai trò rất lớn về mặt chính trị. Ngay điểm khởi đầu, tức là
việc lập nên triều đại này, Phật giáo đã đóng vai trò quyết định.
Tuy đã giúp nhà Tiền Lê, nhưng trước tình trạng tệ
lậu của quốc gia dưới sự cai trị của Lê Long Đĩnh, sư Vạn Hạnh đã
không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi, chấm dứt chế độ dã man
của Lê Ngọa Triều, bằng một cuộc vận động quần chúng qua sấm truyền
về vận mệnh dân tộc gắn với chữ Lý, vốn đã được nhà sư Định Không
(? – 808) nói đến từ hai thế kỷ trước. Với việc Lý Công Uẩn xuất
thân là một môn sinh của nhà chùa và vai trò của sư Vạn Hạnh, sẽ
không ngoa khi nói rằngbước đầu dựng lên nhà Lý công đầu thuộc về
Phật giáo. Sư Vạn Hạnh cũng là người được tin rằng đã thuyết phục
Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long với ý nguyện bảo vệ lâu
dài nền độc lập dân tộc.
Các tăng sư Phật giáo cũng trực tiếp tham dự chính
sự qua việc trực tiếp thiết lập các kế hoạch, thảo văn thư, tiếp sứ
thần, bàn luận cả những vấn đề về quân sự. Tuy can dự vào chính sự
nhưng tăng sư Phật giáo không hề chủ trương tham gia chính quyền, nên sau
đó, khi triều đình đã vững mạnh hơn, có thể tự mình gánh vác tất
cả, thì họ lại tự nhiên lui về với chức năng vốn có của mình, là
hướng dẫn tinh thần và đạo đức, lui về với việc tu đạo của mình khi
nhiệm vụ đối với quốc gia, với quảng đại quần chúng đã hoàn thành.
Phật giáo thời Lý cũng có ảnh hưởng rất lớn lên
văn hóa – nghệ thuật.
Về phương diện học thuật, Phật giáo Việt Nam giai
đoạn này, mà chủ thể là các tăng sĩ, thiền sư, đã có công đào tạo
một lớp trí thức có trình độ uyên thâm cả Phật, Nho, Lão, nhưng lại
không cố chấp và biết dung hợp những dị biệt giữa ba hệ thức triết
lý này. Nhiều thiền sư am tường cả tam giáo (Khuông Việt, Vạn Hạnh,
Đạo Hạnh, Viên giác, Mẫn Giác…), và sẵn sàng truyền thụ cho các môn
đệ những tinh túy của các quan niệm chính trị – xã hội của Nho giáo.
Khi nghị bàn chính sự họ cũng sẵn sàng sử dụng lý luận Nho học.
Kiến thức Nho được sử dụng theo tinh thần Phật giáo đã đóng góp khá
nhiều cho học thuật và chính trị đời Lý.
Dưới sự tác động, hướng dẫn tinh thần của các
thiền sư, Phật giáo dưới thời Lý đã tạo dựng mộtbản sắc văn hóa
chính trị đầy tính nhân bản. Nhà Lý đã được xem như một triều đại
thuần từ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các vị vua của
triều đại này có cuộc sống đạo đức và tâm linh. Đã không có cảnh
tranh đoạt, bạo loạn, cực hình, mà thay vào đó bằng một đường lối
chính trị khoan dung, độ lượng, từ bi với thần dân và với cả kẻ thù
(vua Lý Thái Tông tha tội cho Nùng Trí Cao, vua Lý Thánh Tông không
giết Chế Củ, vua Chiêm Thành). Xã hội vì đó mà bình an, phú cường,
đoàn kết, tạo nên những chiến tích trước Chiêm Thành phía Nam và cả
Tống quốc hùng mạnh phương Bắc.
Phật giáo giai đoạn này cũng có những đóng góp to
lớn đối với sinh hoạt văn học. Văn học Phật giáo đã trở thành dòng
văn học chủ đạo của thời này.
Những công trình kiến trúc và điêu khắc Phật giáo
cũng đóng góp những giá trị mỹ thuật cho triều đại nhà Lý. Những công
trình này giờ đây không còn lưu lại bao nhiêu, nhưng sử sách ghi lại là
vào các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần
Tông đã xây, lập rất nhiều chùa, điện, tháp, tiến hành đúc, vẽ
nhiều tượng, tranh Phật. Những công việc này không phải chỉ nhằm cho
hoàng tộc, mà ở khắp nơi trong dân chúng. Một công trình nhà Lý mà
nay vẫn là một trong những biểu tượng của dân tộc Việt, chính là
Chùa Một Cột, được xây từ năm 1049, khi đó gọi là Chùa Diên Hựu.
Tuy nhiên, sức ảnh hưởng của Phật giáo lên đời sống
chính trị, văn hóa, tinh thần vào thời nhà Lý được cho là có quá
nhiều màu sắc mê tín. Có lẽ nhận định như vậy có phần hơi khắt khe.
Cho dù có những yếu tố Mật giáo, sấm vĩ, phong thủy, nhưng đây lại
là những cái đã góp phần không nhỏ cho vị trí của dân tộc Việt kể
từ thời nhà Đinh đến lúc đó, và tính mê tín của nó thật ra cũng
không bằng ở giai đoạn suy đồi của Phật giáo như vào thời Lê Sơ hay
thời Pháp thuộc.
2.2.3. Ảnh hưởng của Phật giáo dưới thời Trần
Sự ảnh hưởng của Phật giáo dưới đời nhà Lý vẫn
được tiếp tục dưới đời Trần.
Vào đầu thế kỷ 13, đã có sự dần dần sáp nhập vào
với nhau của ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo
Đường. Thiền phái Yên Tử từ đây mà hình thành. Thiền phái này sau
đó, dưới sức ảnh hưởng rất lớn của vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung
Thượng Sĩ, đã có một bước phát triển lớn, trở thành thiền phái
Trúc Lâm – thiền phái duy nhất dưới đời nhà Trần. Có thể nói, thời
đại nhà Trần là thời đại Phật giáo nhất tông, mà thiền sư Hiện
Quang (? – 1221), tu đạo tại núi Yên Tử, là vị khai tổ của sự nhất
tông này.
Vua Trần Thái Tông (1218-1277) không nằm chính thức
trong tông phả của Trúc Lâm, nhưng có nhiều cơ duyên với Phật giáo,
với thiền phái này. Ông đã tự tu học Phật đạo và để lại nhiều tác
phẩm Phật học có giá trị.
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) lại là một chân truyền
chính thức đời thứ sáu của Yên Tử, ông xuất gia năm 1299, sau 21 năm
làm vua, lấy hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà [3] . Ông là người có công đầu
trong việc xây dựng một giáo hội hoàn toàn thống nhất, chính thức
dựng nên thiền phái Trúc Lâm chủ trương nhập thế.
Tư tưởng Phật học của thiền phái Trúc Lâm có thể
có những biến thể ít nhiều khác nhau, trình bày khác nhau, nhưng tựu
trung có thể xem tư tưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ, là điển hình
nhất, độc đáo nhất. Người này đã phát triển học thuật của Yên Tử
theo khuynh hướng thực chứng, không cố chấp vào kinh kệ, điển tự. Ông
quan niệm giáo lý, việc học đạo không phải ở lý thuyết, mà là ở
tồn tại của chính mình, hãy quay về chính bản thân mình, không phải
đi tìm kiếm ở Phật tổ. Ông nổi tiếng ở những quan niệm trái ngược
với thái độ cả chấp, như từng giảng rằng “sắc chẳng phải không,
không chẳng phải sắc”. Ông cũng phê phán rằng khi đặt ra vấn đề giải
thoát chính là đã dựng lên ranh giới giữa phiền trượt và giải
thoát, giữa mê và ngộ, giữa phàm và thánh, giữa sinh tử và niết
bàn. Chính sự “nhị kiến”này làm ta bị bó buộc vào vòng sinh tử,
khiến người ta mãi mãi là kẻ phàm nhân. Ông cũng đả kích sự cả
chấp trong việc thực hành trì giới. Theo ông, sự siêu việt vượt lên
trên tội – phúc khi trì giới là ở chỗ không có sự ràng buộc vô ích
vào nó. Với những quan niệm như vậy, quả thật vị thiền sư này đã
khai mở một đường hướng mới sâu sắc, uyên thâm đích thực trong Phật
học Việt Nam.
Trong buổi đầu nhà Lý, các thiền sư còn can dự trực
tiếp vào công việc chính sự. Triều đình cần đến sức học, tài ngoại
giao, khả năng giáo dục, sự liên kết nhân tâm của họ. Nhưng đến đời
Trần, tình hình đã khác đi. Các vua Trần là những người có tri
thức, lại uyên bác Phật học. Nhưng dù vị trí trực tiếp trong công
việc chính sự của các tăng sĩ không còn nữa, Phật giáo lại vẫn
phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết, ảnh hưởng trực tiếp lên chính
trị, kinh tế văn hóa, xã hội đời Trần, trở thành một tinh thần dân
tộc thời bấy giờ.
Với sự việc vua Trần Thái Tông chuyên tâm học Phật,
vua Trần Nhân Tông xuất gia, xây dựng thiền phái Trúc Lâm, anh vợ của
vua Trần Thánh Tông thì trở thành Tuệ Trung Thượng Sĩ, vua Trần Anh
Tông cũng có chủ đích tu đạo sau khi nhường ngôi (nhưng chưa kịp thì
băng hà), Phật giáo thật sự trở thành một thế lực tinh thần ủng hộ
cho chính trị, và ngược lại, triều đình là một quyền lực củng cố
cho Phật giáo. Có thể giai đoạn Nhân Tông là giai đoạn Phật giáo hưng
thịnh cực độ ở nước ta.
Phật giáo Trúc Lâm chủ trương nhập thế, đạo Phật
phụng sự đời sống, đời sống tâm linh giải thoát đời sống xã hội,
Phật giáo đời Trần thật sự tạo nên một sự thống nhất chính trị,
thống nhất tinh thần dân tộc trên phương diện quốc gia một cách rộng
khắp. Yếu tố liên kết nhân tâm của Phật giáo Trúc Lâm đã khiến thời
kỳ này có một nền tảng chính trị bình dị, dân chủ, thân dân. Một
tiếng “đánh” đồng lòng của Hội nghị Diên Hồng và ba lần liên tục
đánh bại quân xâm lược nhà Nguyên, chính là thể hiện sự thống nhất
dân tộc trên tinh thần Phật giáo.
Về phương diện văn hóa, Phật giáo giai đoạn này cũng
là yếu tố chủ lực, quyết định. Cuộc đời tu học của Trần Thái Tông
đã tạo ra một không khí học Phật thật sự trong giới trẻ, trí thức
ở Thăng Long và trong cả nước. Tấm gương thành đạt trong Phật học của
Thánh Tông và Tuệ Trung khi còn trẻ cũng là một động lực cho việc
này.
Phật giáo đời Trần mang một tinh thần khoan dung và
tự do. Chính đều này gây dựng nên những nét văn hóa xã hội, văn hóa
dân tộc vào thời kỳ này. Phật giáo không chỉ trích Nho, Lão, mà để
cho các giáo lý này tự do phát triển. Trong không khí học tập tự do
và cởi mở, triều đình đãi ngộ hiền sĩ một cách kính cẩn, đã phát
triển sự học lên rất nhiều, và cũng nhiều người tài giỏi xuất
hiện. Chính từ tinh thần dung hợp và khai phóng này của Phật giáo
mà nền học vấn thời Trần không bị ràng buộc bởi khoa cử, thực hiện
chính sách tự do tôn giáo, không phân biệt sĩ phu được đào tạo từ
truyền thống giáo lý nào. Điều đó đã xây dựng nên một nền văn học
rạng rỡ và đầy ý thức tự tin. Thi ca thời Trần vì thế mà mang ảnh
hưởng sâu đậm của thiền học, thi sĩ nhìn sự việc bằng con mắt của
người biết tĩnh tâm thiền quán.
Sinh hoạt Phật giáo cũng là một nét đáng kể trong
đặc điểm văn hóa thời kỳ này. Việc vua Nhân Tông – người đã đánh bại
quân Nguyên, đem thịnh trị, an bình về cho xã tắc – xuất gia, khiến cả
nước hướng về ngọn núi Yên Tử, việc tu luyện Phật pháp thật sự sôi
nổi trong nước. Chùa, tháp mọc lên khắp nơi, khiến Nho gia Lê Bá Quát
đã than rằng dân chúng chỉ lo lập chùa mà không lo lập trường học,
văn miếu. Sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì nói “số người
cắt tóc làm tăng ni cũng bằng nửa số dân thường” [4] . Tất nhiên thực
tế khó mà đến mức như vậy, nhưng điều đó cho thấy tầm mức quá sức
rộng lớn của sinh hoạt Phật giáo lúc đó, đến nỗi, ý thức được nguy
cơ tăng sĩ quá đông mà không thủ trì nghiêm túc giới luật sẽ dẫn đến
suy vong của chính giáo hội, phái Trúc Lâm đã in Tứ thần luật và tổ
chức học tập cho giới tăng sĩ về giới luật, định ra những quy chế rõ
ràng trong việc tổ chức, sinh hoạt, quản lý giáo hội.
Vào thời này nhà chùa cũng đã thực sự trở thành
một lực lượng kinh tế. Điều này cũng dễ hiểu trước sự ủng hộ của
triều đình và thế lực chính trị, xã hội, tinh thần của Phật giáo.
Chùa chiền khắp nơi đã chiếm hữu nhiều ruộng đất. Sử sách còn ghi
lại là ruộng đất được dâng tặng rất nhiều cho các chùa Báo Ân,
Quỳnh Lâm, Sùng Nghiêm, Vĩnh Nghiêm, Thanh Mai, Côn Sơn, là những chùa
lớn thời đó. Riêng chùa Quỳnh Lâm đã có hơn 1.000 mẫu đất và có tới
1.000 người làm ruộng. Lợi tức thu được từ đây có lẽ đã được sử
dụng vào Phật sự và tăng sự của toàn giáo hội.
Phật giáo Trúc Lâm đạt đến đỉnh điểm là vậy, nhưng
đến sau đời sư Huyền Quang (1254-1334), nó không còn hưng thịnh nữa.
Điều này không thể giải thích chỉ bằng sự ra đi quá sớm của vua Anh
Tông trước khi thực hiện ý định xuất gia. Cũng không thể cho là do sự
yếu kém của Huyền Quang, người nhận nhiệm vụ lãnh đạo giáo hội khi
ở vào tuổi 77, cũng không phải là sự bất lực của An Tâm, người kế
vị Huyền Quang. Có lẽ sự đi xuống này cần được giải thích từ nguồn
gốc sâu xa trong những vấn đề xã hội của Phật giáo. Có thể thấy là
khi nền độc lập quốc gia đã trở nên vững vàng, việc củng cố quyền
lực thống trị của mọi triều đại là không thể tránh khỏi. Từ đây
nảy sinh việc tìm kiếm, xây dựng một ý thức hệ làm nền tảng. Nhà
Trần cũng không tránh khỏi điều này, và ý thức hệ này vốn đã có
sẵn, đó chính là Nho học. Nho giáo đã dần hưng thịnh lên, việc học
Nho và các quan Nho ngày một nhiều, và xã hội đã bắt đầu phân hóa
do vấn đề ý thức hệ. Các Nho thần quan niệm chỉ có Nho giáo mới là
đạo thánh nhân, còn Phật giáo thì chỉ có hại cho quốc gia. Hơn nữa,
đối với bản thân Phật giáo thời này, khi mà một giáo hội dựa quá
nhiều vào sự ủng hộ của triều đình mà quên đi thế đứng thật sự
cần được cắm sâu trong dân gian, sự suy giảm của nó là sẽ đến lúc
không thể tránh khỏi.
***
Tóm lại, sau thời kỳ đầu du nhập ở thế kỷ thứ
nhất và thứ hai, trực tiếp từ nguồn gốc Ấn Độ, điều đã cho phép
sự phát triển Phật giáo rất sớm ở Việt Nam, vào những thế kỷ sau,
Phật giáo Việt Nam đã có sự giao tiếp với Phật giáo Trung Hoa, tiếp
nhận những thâm nhập mới. Trong giai đoạn du nhập, Phật giáo Việt Nam
đã bước đầu tự hình thành nên tư tưởng thiền định đầu tiên. Cùng
với sự thâm nhập của Phật giáo phương Bắc sau đó, các thiền phái như
Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường đã phát triển mạnh mẽ.
Trong bối cảnh của một dân tộc bị đô hộ, nhà chùa Phật giáo đã tự
nhận lấy cho mình trách nhiệm chăm lo đối với dân chúng. Họ, những sư
sãi Phật giáo, đã nhận phần công việc dạy học, hốt thuốc, trị
bệnh, ma chay, tế lễ, định việc xây cất, làm ăn… cho mọi người, và
bao trùm lên tất cả, là sự hun đúc một tinh thần độc lập dân tộc.
Chính là từ chỗ tinh thần về một nền độc lập đó vẫn tồn tại, nên
cho dù đã 1.000 năm bị đô hộ mà Đinh Bộ Lĩnh đã có thể hoàn tất
việc xây dựng một triều đại độc lập đầu tiên sau ách thống trị
phương Bắc. Trải qua Đinh, Lê, Lý, Trần, dù các tăng sĩ chỉ can dự
trực tiếp vào chính sự ở giai đoạn đầu, nhưng vị trí, vai trò của
Phật giáo đã ngày càng phát triển, đạt đến độ cực thịnh vào thời
Trần, và chỉ suy thoái từ nửa sau thế kỷ 14.
Sự phát triển của Phật giáo trong những thời kỳ
lịch sử này, với tinh thần nhập thế thể hiện ở những mức độ khác
nhau, không hề đứng trên tư tưởng thống trị, quyền lực và quyền lợi,
Phật giáo đã thực thi một tinh thần khoan dung, độ lượng, hòa hợp
đối với dân chúng, đối với kẻ địch, và cả đối với những tư
tưởng-giáo lý khác. Những điều này không những làm cho Phật giáo
đứng ở trung tâm của hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội giai đoạn thế
kỷ 10 – 14, thậm chí có những lúc là quyết định vận mệnh quốc gia
(trường hợp Lý Công Uẩn lên ngôi), mà đối với bản thân, nó đã xây
dựng cho mình một tư tưởng Phật giáo, một giáo hội Phật giáo Việt
Nam độc lập, mang bản sắc riêng, và lớn hơn thế nữa, nó còn tạo nên
bản sắc văn hóa, bản sắc chính trị trong giai đoạn lịch sử này, tạo
nên bản sắc của dân tộc ta khi đó. Sự đi xuống của Phật giáo sau đó,
từ nửa sau thế kỷ 14, là một điều hoàn toàn hợp tính quy luật, khi
mà một hệ tư tưởng tôn giáo không còn có sự ủng hộ của những quyền
lực thế tục. Nhưng dù vậy, tinh thần hòa hợp Phật giáo – dân tộc đó
mãi mãi là một trong những trang sử đậm nét nhất của dân tộc ta.
Nguồn: © 2008 talawas
—————–
Lời tác giả: Tiểu luận này hoàn toàn chỉ như một tổng kết ngắn
gọn của vấn đề được nêu, từ các tài liệu lịch sử và sử liệu Phật giáo rất có
giá trị của các học giả lớn trên lĩnh vực này. Một vài nhận định cỏn con của
tôi từ đó thật sự không đáng gì so với các nguồn học thuật này, nhưng là kết quả
của cảm giác thú vị trong khám phá khi nhận ra những điều thật sự thú vị của lịch
sử Phật giáo nước nhà giai đoạn này. Mong rằng cảm giác này truyền được sang những
bạn đọc có quan tâm đến đề tài nhưng lại không có nhiều thời gian để đọc lại
toàn bộ sử liệu.
Tôi mang ơn Nguyễn Lang, tác giả của bộ Việt Nam Phật
giáo sử luận, nguồn cung cấp tư liệu chủ lực cho tiểu luận này.
[1]Theo Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, in
lần thứ 3, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1992
[2]Khi đó ở Đông Hán, Lão giáo còn mang nhiều yếu
tố thần tiên. Câu chuyện “hóa Hồ” cho rằng Lão Tử sau khi biệt tăm ở
miền Tây đã sang Hồ (Ấn Độ) và giáo hóa, chinh phục người Hồ, và
chính ông trở thành… Phật Thích Ca.
[3]Khác với thiền sư Viên Chứng hiệu là Trúc Lâm,
đời thứ hai của Yên Tử, được phong quốc sư vào khoảng năm 1248.
[4]Theo Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo Sử luận, in lần
thứ 3, Nxb Văn hóa, HàNội, 1992, tr. 469, 470
- Liên hệ: Hồng Phượng
- Phone/Zalo: 0964 760 502
- Email: hongphuongstore@yahoo.com
- Website: www.hongphuong.net
Nơi mua sắm tin cậy cho bạn và gia đình!