Blog

Tham nhũng ở Việt Nam và các biện pháp nhằm hạn chế nó: thách thức to lớn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - E.V. Kobelev, V.M. Mazyrin

Tham nhũng ở Việt Nam và các biện pháp nhằm hạn chế nó: thách thức to lớn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
E.V. Kobelev, V.M. Mazyrin
Mai K Đa dịch từ tiếng Nga
Bài báo trên tạp chí Nghiên cứu Việt Nam, Тập 5, № 3 (2021)
Thông tin trích dẫn của bài báo:
Кобелев Е.В., Мазырин В.М. Коррупция во Вьетнаме и меры по её ограничению: тревожный вызов для КПВ // Вьетнамские исследования. Сер. 2. 2021. № 3. С. 27– 51.
Link bài báo:


Tóm tắt: Các tác giả là những người đầu tiên trong giới khoa học Nga trình bày chi tiết về tham nhũng ở Việt Nam hiện đại, bao gồm định nghĩa, mức độ lan rộng, nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của thảm họa này, các biểu hiện và hậu quả chính của nó. Việc đánh giá biên độ và cách thức khắc phục tham nhũng dựa trên số liệu của các tổ chức quốc tế và một số chuyên gia. Việc thắt chặt dần chính sách lãnh đạo của ĐCSVN-CHXHCNVN trong lĩnh vực này được thể hiện, bao gồm việc tổ chức xét xử một số quan chức cấp cao tham nhũng, cấm xuất cảnh đối với đảng viên bị nghi ngờ tham nhũng, v.v. Nội dung phòng, chống tham nhũng trong các văn bản, quyết định liên quan được nhấn mạnh. Nhìn chung, bài báo đưa ra đánh giá tích cực về những nỗ lực đang thực hiện, nó được kết hợp trong bài viết với kết luận rằng tham nhũng trong xã hội Việt Nam đã trở thành một thách thức đối với đảng cầm quyền, không thể chống lại một cách hiệu quả.

Từ khóa: ĐCSVN, ổn định chính trị, đặc điểm của tham nhũng, chỉ số cảm nhận tham nhũng, biện pháp phòng chống tham nhũng và hỗ trợ pháp lý, lý thuyết Bey-Olken

Mở đầu

Đại hội thường kỳ lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào tháng 1 năm 2021 đã đề ra nhiệm vụ đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, có nền kinh tế thịnh vượng, có mức sống cao vào năm 2045, tức là vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày độc lập [ Nghị quyết Đại hội 2021]. Rõ ràng, điều này đồng nghĩa với một xã hội khỏe mạnh.

Đồng thời, các chuyên gia về Việt Nam cũng nhấn mạnh rằng, việc giải quyết vấn đề này đang bị cản trở nghiêm trọng bởi tình trạng tham nhũng đang gia tăng, cũng như các quá trình tiêu cực khác trong đảng cầm quyền và bộ máy nhà nước. Tính cấp thiết của việc đấu tranh chống chúng đã được đề cập trong các văn kiện của các kỳ đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có khóa XIII (tháng 1/2021) vừa qua. Phải thừa nhận rằng tham nhũng đã đến mức “quốc nạn” [Nguyễn Văn Hùng: 10/06/2020]. Điều này xác định tầm quan trọng của việc phân tích sâu sắc bản chất của nó và các hiện tượng đi kèm, điều vẫn còn thiếu trong nghiên cứu Phương Đông của Nga, và cũng là điều mà bài báo này tập trung vào.

Các nghiên cứu khách quan và thấu đáo về hiện tượng này thường được thực hiện ở Việt Nam với sự cộng tác của các nhà khoa học phương Tây và được công bố ở phương Tây. Một số công trình đáng chú ý chỉ được xuất bản trong thập niên 2020: [Nguyễn Thu Thủy, van Dijk 2012]; [Nguyễn T.V. et al. 2016]; [Vũ Anh Đào 2017];

[Nguyễn Thị Xuân Hương 2018]; [Markussen, Ngô Quang Thành 2019]. Chúng ta hãy xếp cùng hàng các tác phẩm độc lập của Nguyễn Văn Hùng [2020] và Trần Hữu Thận [2019]. Nhóm tác giả này cho rằng nếu không xây dựng một chính sách chống tham nhũng hiệu quả và thực hiện nó nghiêm túc, thì tham nhũng “có thể dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản và của chính Đảng Cộng sản Việt Nam” [Trần Hữu Thân 2019:11]. Các chuyên gia độc lập của Việt Nam, ví dụ, Lê Hồng Hiệp, người cộng tác với CSIS của Mỹ, cũng đưa ra các quan điểm tương tự.

Có rất ít công trình như vậy ở Liên bang Nga do khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn dữ liệu. Trong số các đồng nghiệp người Nga, V.N. Kolotov [2019, 2021] chú ý nhiều hơn đến hậu quả của tham nhũng và các biện pháp chống lại tham nhũng, mặc dù cho đến nay ông vẫn chưa có các ấn phẩm đặc biệt về chủ đề này. Các tác giả của bài báo đã phải nghiên cứu tình hình hiện tại dựa trên cơ sở tài liệu của các cơ quan truyền thông, đánh giá của chuyên gia, dựa trên nghiên cứu trước đó của họ [Mazyrin 2007: 74–76]. Từ đó cho thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề đã nảy sinh và giải pháp của nó vẫn chưa được bắt đầu từ hôm nay, như nhiều chuyên gia thân cận với ĐCSVN cho rằng, điều đó có nghĩa là chiến dịch đã được tiến hành không hiệu quả trong hơn 20 năm.

Ở phương Tây, đề cập đến chủ đề tham nhũng thường được sử dụng để chỉ trích hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tài liệu học thuật, nó đã trở thành chủ đề phân tích của một số học giả Việt Nam có thẩm quyền, như A. Fjord [Fford 2021], K. Thayer [Thayer: 17.01.2018], M. Gainsburg [Gainsborough 2013], B. .Kerkvliet [Kerkvliet 2001]. Các nghiên cứu về hồ sơ của các nhà khoa học với chuyên môn rộng hơn đã xuất hiện: [Fritzen 2002], [Rand, Tarp 2012], [Bai et al. 2013].

Ở phương Tây, đề cập đến chủ đề tham nhũng thường được sử dụng để chỉ trích hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tài liệu học thuật, nó đã trở thành chủ đề phân tích của một số học giả Việt Nam có thẩm quyền, như A. Fjord [Fford 2021], K. Thayer [Thayer: 17.01.2018], M. Gainsburg [Gainsborough 2013], B. .Kerkvliet [Kerkvliet 2001]. Những nghiên cứu định hình của các nhà khoa học với chuyên môn rộng hơn đã xuất hiện: [Fritzen 2002], [Rand, Tarp 2012], [Bai et al. 2013].

Kaufman, Kray và Mastruzzi, khi bình luận về các đánh giá tham nhũng của tổ chức hàng đầu trong lĩnh vực này “Minh bạch Quốc tế”, đã thừa nhận rằng chúng không thể chính xác, bất kể các chỉ số chủ quan hay khách quan được sử dụng. Từ đó, một kết luận hợp lý đã được rút ra: tính không chính xác và thường mang tính chủ quan của dữ liệu quan trọng có thể ảnh hưởng đến tính đúng đắn của các kết luận khoa học về chủ đề đang nghiên cứu [Tham nhũng ở Việt Nam: 25/06/2021].

Hầu hết các chuyên gia đều phân tích mức độ và biểu hiện của tham nhũng, kết quả đạt được trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên cơ sở nhìn nhận tính chất cấp bách của công việc này và tác hại đối với xã hội.

Nhưng do hiệu quả của chiến dịch này chưa cao, trái ngược với sự đi lên rõ rệt của nền kinh tế Việt Nam và mức sống của người dân Việt Nam, nên các nhà khoa học Mỹ đã quyết định “đưa ra sự đảm bảo” cho triển vọng gần và tài trợ cho “sự nghiệp đúng đắn”. Lấy Việt Nam làm ví dụ, Gee Bey từ Đại học Pennsylvania và Ben Olken từ Viện Công nghệ Massachusetts kết luận rằng tham nhũng không phải là một vấn đề nghiêm trọng như người ta vẫn tưởng [Không cần đấu tranh: 25/11/2013]. Theo lý thuyết của họ, bản thân tăng trưởng kinh tế sẽ dần dần loại bỏ tham nhũng, vì tham nhũng và nghèo đói có xu hướng song hành với nhau.

Tham nhũng có xu hướng cao ở các nước có thu nhập bình quân đầu người thấp. Khi tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng tăng lên, tham nhũng sẽ giảm đi - những quốc gia này chỉ đơn giản là "phát triển" khỏi nó. Kết quả là, theo Bei-Olken, các quan chức bị cáo buộc sẽ không còn ham muốn nhận hối lộ và các công ty phải trả tiền cho họ [Bai et al. 2013: 29]. Lý thuyết là lạc quan, vấn đề duy nhất là độ chính xác của các phép tính và bạn có thể đạt được kết quả mong muốn trong bao lâu.

Đối với Việt Nam, việc xác minh rất khó do thu nhập thấp (được xếp vào nhóm nhỏ các quốc gia có GDP bình quân đầu người ở mức trung bình) và kế hoạch đạt được mức thu nhập cao, như đã nêu tại Đại hội XIII của ĐCSVN, vào năm 2045, tức là, trong một phần tư thế kỷ tới [Nghị quyết Đại hội 2021 ].

Các nghiên cứu khác lập luận và kinh nghiệm chứng minh rằng giảm tham nhũng sẽ làm tăng phúc lợi xã hội của người dân nói chung, giảm bất bình đẳng thu nhập và tăng chi tiêu xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế và giáo dục. Rõ ràng rằng, mức độ tham nhũng sẽ giảm cùng với sự ổn định kinh tế, bao gồm cả việc giảm lạm phát, và có những điều kiện khách quan cho điều này ở Việt Nam [Mazyrin 2016: 259–275].

Những đặc điểm chính về tham nhũng ở Việt Nam

Trong những thập kỷ qua, các cơ quan liên quan quốc tế và quốc gia đã liên tục ghi nhận mức độ tham nhũng cao ở Việt Nam hiện đại. Nó được nhìn nhận là một vấn đề mang tính hệ thống, tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội của nhà nước Việt Nam. Đặc biệt là gây thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước, giảm sút chất lượng công việc của bộ máy nhà nước, suy thoái hệ thống tư pháp. Tất cả những điều này làm xói mòn nền tảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, làm suy giảm niềm tin của người dân vào chính quyền và Đảng Cộng sản cầm quyền, dẫn đến sự phá hủy và mất giá trị các chuẩn mực xã hội, đạo đức và các chuẩn mực khác [Chân Hữu Thân 2019: 3 ]. Tham nhũng được các tổ chức quốc tế xác định là trở ngại lớn đối với việc thực hiện chiến lược phát triển quốc gia, vì nó làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước, cản trở tăng trưởng kinh tế và nỗ lực xóa đói giảm nghèo, bóp méo môi trường cạnh tranh trong kinh doanh.

Vấn đề tham nhũng được thảo luận rộng rãi trên các phương tiện truyền thông và trên các diễn đàn chính trị ở Việt Nam. Các chuyên gia và người dân bình thường nhất trí tin rằng, tham nhũng sẽ gây ra mối nguy hiểm ngày càng tăng đối với xã hội Việt Nam và tạo ra những trở ngại cho quá trình hiện đại hóa kinh tế và chính trị cơ bản của đất nước. Tham nhũng được xem là một trong những mối đe dọa chính đối với sự ổn định xã hội, tài chính, kinh tế và chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Theo các nhà nghiên cứu về Việt Nam và các tổ chức quốc tế có uy tín, Việt Nam từ lâu đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tham nhũng ở tất cả các cấp và chưa đạt được tiến bộ đáng kể nào trong cuộc chiến chống tham nhũng. Tham nhũng gần như đã ăn sâu vào nếp nghĩ, lề lối làm việc của cán bộ công chức, đảng viên cấp cao của ĐCSVN. Nhưng các chuyên gia không thể xác định chính xác bản chất của hiện tượng này, vì cái được coi là tham nhũng ở phương Tây thường được người Việt Nam coi là “sự bảo trợ” (bảo hộ, bảo vệ) (clientelism), vốn là một phần văn hóa của họ. Người ta nói “tham nhũng ở khắp mọi nơi trong cuộc sống: muốn làm việc gì nhanh chóng dễ dàng thì cần có hối lộ, không có hối lộ thì công việc không thể thành công” [Nguyễn Duy Xuân: 02/04/2021].

Do không có định nghĩa, cách hiểu hay cách đo lường tham nhũng được chấp nhận rộng rãi nên rất khó để xác định mức độ tham nhũng của một quốc gia. Không phải tất cả các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam, đều tán thành định nghĩa về tham nhũng của tổ chức phi chính phủ (NGO) Tổ chức Minh bạch Quốc tế, mặc dù họ công nhận xếp hạng của nó.

Theo một khảo sát do tổ chức quốc tế này thực hiện năm 2016, hơn 30% dân số Việt Nam buộc phải hối lộ quan chức để có được giấy phép hành chính. Một số người tin rằng mức độ bao phủ thực sự rộng hơn - lên tới 60-70% dân số. Theo Maruichi và Abe, phải hối lộ từ 50 đô la đến 500 đô la để được cấp giấy phép hoặc đăng ký kinh doanh [Tham nhũng ở Việt Nam: 25/06/2021]. Tổng cộng, theo các cuộc khảo sát, các công ty thực hiện các khoản thanh toán không chính thức với số tiền 20-30 nghìn đô la một năm, chiếm tới một nửa lợi nhuận trước thuế của họ [Nguyen T.V. et al. 2016: 362]. Thủ phạm của tham nhũng thường được coi là các quan chức nhà nước và đảng viên, điều này gây ra sự bất bình trong dân chúng và doanh nghiệp.

Theo Chỉ số cảm nhận tham nhũng năm 2020, tính cho 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp Việt Nam thứ 104 (36 điểm trên 100 có thể), năm 2019 - 96 với 37 điểm (Hình 1). Đây là tiến bộ so với 2012-2015 [Corruption Perceptions Index 2020]. Trong số các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 5, sau Singapore, Brunei, Malaysia và Indonesia. Vị trí vẫn còn thấp của Việt Nam trong bảng xếp hạng quốc tế quan trọng cho phép các đối tác phương Tây lên án Hà Nội về sự thiếu hiệu quả của các biện pháp chống tham nhũng, ám chỉ sự độc quyền của ĐCSVN là nguyên nhân của hiện tượng này và gây áp lực chính trị để buộc họ phải nhượng bộ [Vietnam Corruption Index].

Các công bố của các phương tiện truyền thông Việt Nam và nghiên cứu của các chuyên gia chỉ ra những nguyên nhân chính sau đây dẫn đến sự xuất hiện và phát triển của tham nhũng:

- vai trò của các cơ quan thực thi pháp luật, chẳng hạn như cảnh sát và viện kiểm sát, trong cuộc chiến chống tham nhũng chưa được thực hiện đầy đủ.

Trên thực tế, nhiều vụ án tham nhũng được thực hiện bí mật, có sự tham gia của chính các cơ quan bảo vệ pháp luật;

- hành vi quy phạm bắt buộc tất cả các quan chức phải công bố thông tin về tình trạng tài sản và thu nhập của họ về bản chất là chính thức, nhưng nó không áp dụng cho bất kỳ người thân nào của họ, ngay cả những người thân nhất của họ, chẳng hạn như con cái và vợ hoặc chồng;

- sự chuyển đổi từ quản lý nhà nước đối với nền kinh tế sang thị trường tự do, sự ra đời của kinh tế tư nhân, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và tiền đề cho tham nhũng phát triển;

- đưa hối lộ để có được chức vụ, quyền hạn, bằng cấp, nâng giới hạn độ tuổi, v.v. ngày càng trở nên phổ biến;

- tham nhũng là một trong những hệ quả chủ yếu của sự suy thoái về giá trị đạo đức, lối sống của một số cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và cán bộ của ĐCSVN;

– sự đánh giá thấp của các cơ quan nhà nước về vai trò của người dân và các phương tiện truyền thông trong cuộc chiến chống tham nhũng. Có ý kiến ​​cho rằng tài liệu truyền thông không phải lúc nào cũng đáng tin cậy, một số ấn phẩm được sản xuất theo yêu cầu và làm phức tạp hoạt động của các cơ quan kiểm soát trong việc phát hiện và trấn áp các vụ tham nhũng;

– rủi ro tham nhũng gắn liền với văn hóa và phong tục lịch sử của người dân. Ở các nước Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, có một phong tục rõ ràng là tặng quà và đưa hối lộ thực sự: người dân tin rằng cần có động lực tốt để giải quyết mọi vấn đề. Nhiều người coi tham nhũng là hữu ích để duy trì sự hài hòa trong xã hội, duy trì lợi ích cá nhân của công dân, bao gồm cả việc tăng thu nhập của họ.

Mô tả hậu quả kinh tế của tham nhũng ở Việt Nam, các phương tiện truyền thông và các chuyên gia chỉ ra như sau. Nó thực sự ngốn một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước, chẳng hạn như xảy ra trong ngành xây dựng khi mua nguyên vật liệu, cấp vốn, tổ chức kiểm toán và các công việc tương tự khác. Các nhà thầu thường được chỉ định mà không có sự cạnh tranh, và chi phí thực tế vượt quá ngân sách của các dự án xây dựng. Theo số liệu của Thanh tra Chính phủ, từ năm 2008 đến 2015, chỉ có 1/15 dự án triển khai trong lĩnh vực giao thông và bảo vệ môi trường tại Hà Nội được đấu thầu thực tế; các dự án còn lại chỉ định thầu sai luật, kéo dài thời gian thực hiện các dự án này, vượt dự toán 1.000 tỷ đồng (khoảng 50 triệu USD) [Hàng loạt dự án: 20/07 /2017]. Kết quả là, nhiều tài sản nhà nước rơi vào tay các quan chức cấp cao và một nhóm "tư bản đỏ" xuất hiện.

Tại hội nghị đánh giá việc thực hiện luật phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2005-2015 được tổ chức vào ngày 12 tháng 7 năm 2016, chính phủ Việt Nam đã công bố số liệu về thiệt hại kinh tế do tham nhũng gây ra trong hơn một thập kỷ: tổng thiệt hại lên tới 3 tỷ đô la, chỉ có 7,8% số tiền bị đánh cắp được trả lại cho ngân sách [Nguyên Hà: 13/07/2016]. Tham nhũng làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, do một số doanh nghiệp không đủ năng lực nên không thể thực hiện nghĩa vụ của mình, dẫn đến mất niềm tin và các hậu quả khác, chẳng hạn như chất lượng công trình kém.

Tham nhũng lũng đoạn môi trường đầu tư kinh doanh. Chi tiêu không chính thức của nhà đầu tư - hối lộ để giành được hợp đồng - làm tăng tổng ngân sách của dự án và giảm khả năng sinh lời, do đó nhà đầu tư thường chần chừ trong việc đưa ra quyết định đầu tư.

Ngoài ra, các hiện tượng trong nền kinh tế như hối lộ, tham nhũng, đặc quyền, gia đình trị đã đặt các doanh nghiệp hoạt động theo pháp luật vào thế bất bình đẳng, bất lợi. Kết quả là ở Việt Nam, cũng như ở các quốc gia khác có mức độ tham nhũng cao, các hoạt động kinh doanh và đầu tư tiềm ẩn nhiều rủi ro, làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Trong quan hệ thương mại và kinh tế giữa các quốc gia, tham nhũng đe dọa hiệu quả của các dự án và ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín quốc tế của các bên tham gia. Nó làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ do sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài chính được giao, thiếu nguồn tài chính này thì nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội không thể thực hiện được.

Như chúng ta có thể thấy, cả hai loại tổn thất kinh tế do tham nhũng - trực tiếp và gián tiếp - đều nguy hiểm như nhau. Tổn thất trực tiếp là do ngân sách nhà nước hụt ​​thu, tổn thất gián tiếp dẫn đến hiệu quả chung của nền kinh tế bị giảm sút.

Kích hoạt chính sách chống tham nhũng

Nhận thấy sự nguy hiểm của tình hình hiện nay, lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết, chiến lược, chính sách và quan trọng nhất là các biện pháp pháp lý để phòng, chống tham nhũng.

Một trong những người ủng hộ lập lại trật tự chính là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, điều đã góp phần lớn vào việc ông được giữ lại nhiệm kỳ thứ ba vào năm 2021. Ông theo đuổi một đường lối kiên quyết và cứng rắn trong cuộc chiến không khoan nhượng chống tham nhũng dưới mọi hình thức (Hình 2) [Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: 25.07.2020]. Theo V.N. Kolotov, Nguyễn Phú Trọng đã khởi xướng chương trình chống tham nhũng Đốt lò để thanh trừng giới lãnh đạo đất nước gồm những phần tử thoái hoá, và chiến dịch này đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tự thanh lọc của đảng [Kolotov 2021: 38– 39].

Luật Chống Tham nhũng đã được thông qua vào năm 2005 và theo Ngân hàng Thế giới, đây là một trong những đạo luật chống tham nhũng tốt nhất ở Châu Á.

Như Martini, một phóng viên của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, đã chỉ ra, các định nghĩa, phạm vi và tiêu chí áp dụng trong luật được rút ra từ các nguồn và tổ chức phương Tây hoặc do phương Tây bảo trợ. Không có gì ngạc nhiên khi nó khó thực hiện ở Việt Nam, nhưng nó nói lên nhiều điều về định hướng của các nhà lãnh đạo nước này [Tham nhũng ở Việt Nam: 25/06/2021].

Ngày 9 tháng 12 năm 2019, luật phòng, chống tham nhũng cập nhật số 36/2018/QH14 (Luật phòng, chống tham nhũng) có hiệu lực tại Việt Nam. Luật này lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về khái niệm "xung đột lợi ích" ở cấp độ lập pháp. Các quy định nhằm làm rõ việc thực hiện trên thực tế các hạn chế đã đặt ra đối với cựu công chức xin vào các vị trí trong một số tổ chức của khu vực ngoài nhà nước, đồng thời đưa ra các quy tắc cập nhật về tặng và nhận quà cho công chức [Ở Việt Nam có hiệu lực: 06/ 16/2021].

Luật bắt buộc các tổ chức thương mại phải áp dụng quy tắc ứng xử và thực hiện các cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm ngăn chặn xung đột lợi ích và các hoạt động tham nhũng, cũng như tạo ra văn hóa liêm chính trong tổ chức. Đối với một số loại tổ chức khu vực tư nhân (công ty đại chúng, tín dụng và các tổ chức khác được thành lập theo quyết định của cơ quan cấp cao), cũng như các tổ chức công cộng, theo điều lệ, thu thập các khoản quyên góp từ dân chúng, phải tuân theo các quy định mà các tổ chức nhà nước phải tuân theo: về công khai thông tin và minh bạch hoạt động, về quy định xung đột lợi ích, về trách nhiệm của người quản lý và cấp phó để xảy ra tham nhũng trong tổ chức của mình.

Năm 2009, Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, cam kết thực hiện các biện pháp thích hợp, từ đó cuộc chiến chống tệ nạn này ở Việt Nam trở nên có hệ thống. Do đó, một báo cáo năm 2010 của Văn phòng Liên Hợp Quốc về Ma túy và Tội phạm (UNODC) ghi nhận việc Việt Nam thực hiện một phần các điều khoản khác nhau của công ước, chẳng hạn như thắt chặt luật chống hối lộ và tham ô. Do đó, chính quyền CHXHCNVN đã đẩy mạnh cuộc chiến chống tham nhũng bằng cách bắt giữ một số quan chức cấp cao dính líu đến tham nhũng. Đồng thời, người ta chỉ ra rằng các vụ bắt giữ cũng có thể có động cơ chính trị. Mặc dù có một số tiến bộ, nhưng theo báo cáo của UNODC, một số trường hợp ngoại lệ đã được đưa ra đối với việc thực hiện công ước, ví dụ, hối lộ trong lĩnh vực kinh doanh tư nhân, hiện là lĩnh vực chính trong nền kinh tế của đất nước, không bị hình sự hóa [ UNODC 2010].

Các biện pháp giám sát cũng đã được tăng cường trong chính Đảng CSVN. Đặc biệt, theo quyết định của Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (2012), một cơ quan đảng đặc biệt đã được thành lập - Ban Phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị Trung ương, và Ban Nội chính đã được khôi phục trong Ban Bí thư của BCH Trung ương. Các bộ phận tương tự đã được thành lập trong tất cả các ủy ban tỉnh và thành phố của Đảng Cộng sản.

Vào tháng 6 năm 2018, các cơ quan kiểm soát của đảng đã nhận được quyền cấm xuất cảnh những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam bị nghi ngờ tham nhũng và lạm quyền. Theo BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, biện pháp này sẽ ngăn chặn nỗ lực trốn tránh công lý của Việt Nam ở nước ngoài của các quan chức tham nhũng [Nghi phạm tham nhũng: 17/06/2021]. Một biện pháp nghiêm khắc khác nhằm trừng phạt các quan chức tham nhũng là trao cho các cơ quan kiểm soát của đảng quyền thu giữ tài sản do phạm tội mà có.

Sau đó, nó có thể bị tịch thu cho nhà nước, và có lẽ đây là một yếu tố khác sẽ khiến các quan chức một lần nữa suy nghĩ về việc liệu nó có đáng để thực hiện các hành động bất hợp pháp hay không.

Nằm trong cuộc vận động, hai năm sau Đại hội XII, tính đến hết năm 2018, đã thi hành kỷ luật 53.306 đảng viên. Trong số này, 1.300 người đã bị đưa ra xét xử, bị trừng phạt vì tham nhũng và các tội danh khác. Năm 2019, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng phát hiện nhiều sai phạm nghiêm trọng mới. Giữa hai kỳ Đại hội 12 và 13, hơn 90 quan chức nằm trong danh sách Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ba Lan đã bị kỷ luật, trong đó có 21 cựu và đương nhiệm Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản và hai cựu Ủy viên Bộ Chính trị [Lê Hồng Hiệp: 06.07.2018; Nguyễn Văn Hùng: 10/06/2020]3 .

Các nhà chức trách quyết tâm đưa cuộc chiến này đến hồi kết thắng lợi và tuyên bố rằng không có và sẽ không có “khu vực cấm” cho nó. Như vậy, Chính phủ Việt Nam đã hoàn thành chương trình hành động phòng, chống tham nhũng giai đoạn đến năm 2020 và đang tiền hành đánh giá kết quả [Thành lập Ban Chỉ đạo: 01/06/2021]. Một chương trình cho giai đoạn 2021–2025 đã được thông qua, chú trọng nâng cao vai trò, trách nhiệm cá nhân của cán bộ quản lý, công chức các cơ quan nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, bảo đảm phòng, chống lạm dụng hiệu quả.

Yêu cầu tăng cường đấu tranh chống suy thoái đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo của đảng và sự gia tăng có liên quan của tham nhũng như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các văn kiện của các kỳ đại hội vừa qua của ĐCSVN. Vì vậy, trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội XII, nhiệm vụ “đấu tranh bằng mọi cách chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo đức của đảng viên, những biểu hiện “tự chuyển hoá”, “tự diễn biến”, kiên quyết áp dụng các biện pháp trấn áp, loại bỏ các hiện tượng tham nhũng, lãng phí” [Đại hội XII ĐCSVN 2016: 87 ]. Tài liệu tự kiểm điểm Đại hội XII ghi nhận, những biểu hiện tham nhũng, lãng phí trong Đảng vẫn hết sức nghiêm trọng, có tính chất tinh vi, phức tạp hơn.

Nghị quyết Đại hội XIII của ĐCSVN kêu gọi cán bộ, đảng viên “đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội” [Nghị quyết Đại hội: 25.02.2021]. Đại hội đảng bộ các cấp trước đại hội Đại hội Đảng toàn quốc để tiến hành lựa chọn những người lao động có đạo đức, phẩm chất cao, phải được thực hiện chỉ thị này. Theo V.N. Kolotov, “các đại biểu được chọn trong số các đồng chí đáng tin cậy đã trở thành một loại rào cản trên con đường tranh giành quyền lực của các quan chức tham nhũng và những kẻ thoái hóa” [Kolotov 2021: 39].

Ở các nước phương Tây, các tổ chức phi chính phủ đang tích cực tham gia vào công việc xác định các vụ tham nhũng. Hoa Kỳ và các đối tác khuyến khích và hỗ trợ mạnh mẽ hoạt động của các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam [Mazyrin 2007: 103–104], cho rằng bằng cách đó họ đang giúp hình thành một xã hội dân sự ở đây. Các nhà lãnh đạo của ĐCSVN nước CHXHCN Việt Nam không dám sử dụng các tổ chức phi chính phủ cho các mục đích này, để không làm giảm sự ổn định chính trị trong nước, không để mất quyền lực của họ. Đáp lại, có chỉ trích rằng Hà Nội đã không nhận thức đầy đủ vai trò xây dựng của các tổ chức xã hội dân sự, và người dân không được huy động để chống tham nhũng vì sợ rằng sáng kiến ​​tự do của họ sẽ làm suy yếu vị thế độc tôn của Đảng Cộng sản.

Những vụ án chống tham nhũng gây tiếng vang nhất

Những vụ án chống tham nhũng gây tiếng vang nhất bao gồm việc phát hiện tội phạm, trừng trị những quan chức cấp cao nhất [Top 10 vụ tham nhũng: 12/06/2021]. Ví dụ nổi bật nhất là vụ xét xử một nhóm lãnh đạo của tập đoàn nhà nước hàng đầu là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, những người đã bị bắt và lãnh án tù dài hạn. Trong số những người bị kết án có cựu bộ trưởng giao thông Đinh La Thăng, người từng là chủ tịch hội đồng quản trị của công ty. Vào thời điểm bị bắt vào tháng 12 năm 2017, ông là phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Bộ Chính trị. Ông trở thành quan chức cấp cao đầu tiên trong lịch sử ĐCSVN phải ngồi tù vì tội tham nhũng.

Trịnh Xuân Thanh, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cũng nhận hình phạt nghiêm khắc. Ngoài ra, 20 bị cáo khác trong vụ án tham nhũng đã bị kết án cả trong chính tập đoàn dầu khí nhà nước và một số công ty con của tập đoàn này [Cựu lãnh đạo cấp cao: 22/01/2018] (Hình 3). Các công ty bị nắm giữ, bao gồm ngân hàng, công ty xây dựng, nhà máy điện và nhà máy dệt, đã bị thiệt hại hàng trăm triệu đô la do hành động của các quan chức tham nhũng.

Đảng đã phát động cuộc chiến chống tham nhũng trong các cơ quan thực thi pháp luật, do ảnh hưởng to lớn và tầm quan trọng đối với an toàn công cộng, trước đây phần lớn được bảo vệ khỏi các lệnh trừng phạt.

Kết quả, 38 sĩ quan cấp cao, trong đó có 23 tướng (trong đó có Thứ trưởng Bộ Công an Bùi Văn Thành, Trần Việt Tân) nhiệm kỳ 2016-2019 bị kỷ luật và truy cứu trách nhiệm hình sự [Lê Hồng Hiệp: 30/01/2020].

Năm 2019, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn, người tiền nhiệm Nguyễn Bắc Son và 12 cộng sự trong vụ án liên quan đến việc MobiFone mua 95% cổ phần AVG đã bị kết án tù vì vi phạm nghiêm trọng quy tắc quản lý đầu tư công và tội hối lộ. Cũng trong năm này, hơn 200 vụ án tham nhũng đã được khởi tố, liên quan đến khoảng 500 người. Nhiều người trong số họ bị kết tội trộm cắp tài sản nhà nước, vi phạm các quy tắc quản lý kinh tế và lạm dụng chức vụ [Top 10 vụ tham nhũng: 12/06/2021].

V.N. Kolotov lưu ý một cách đúng đắn về một nguy cơ tham nhũng khác ở Việt Nam hiện đại - mối liên hệ của các quan chức tham nhũng với các nước phương Tây, nơi họ che giấu thu nhập bất hợp pháp. Kết quả là, có một cuộc tuyển dụng các quan chức cấp cao tham nhũng đã gửi vốn và người thân của họ sang phương Tây, và việc quản lý mạng lưới đại lý này bằng các dịch vụ đặc biệt [Kolotov 2019: 7].

Trong giới quyền lực và giới truyền thông Việt Nam, những vụ việc này được đánh giá là kết quả cụ thể quan trọng của công cuộc chống tham nhũng, bằng chứng là việc đẩy mạnh công tác này, việc thực hiện Luật Phòng chống tham nhũng, và cuộc chiến chống tham nhũng, quyết tâm làm trong sạch hàng ngũ đảng và bộ máy nhà nước của những người lãnh đạo đất nước. Theo ý kiến của chúng tôi, đây là những điều quan trọng, nhưng không khác gì tách biệt, hậm chí có thể, những biểu hiện tiết lộ của chiến dịch đang diễn ra, còn lâu mới kết thúc, mặc dù chúng nên được đánh giá là đáng khích lệ.

Theo nhà khoa học chính trị Lê Hồng Hiệp, vẫn chưa rõ chiến dịch này sẽ kéo dài bao lâu và liệu nó có giúp giảm mức độ tham nhũng ở cấp chính quyền địa phương, nơi ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của người dân và doanh nghiệp hay không. Nếu không, người dân sẽ coi đó là một màn trình diễn chính trị [Lê Hồng Hiệp: 06/07/2018]. Trong các cơ cấu chính phủ mà người dân và doanh nghiệp tiếp xúc hàng ngày, chẳng hạn như cơ quan thuế và hải quan, vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện rõ ràng. Ví dụ, theo một cuộc khảo sát được thực hiện như một phần của cuộc vận động dân sự “Hãy minh bạch hóa”, chỉ 13% số người được hỏi ở Thành phố Hồ Chí Minh và 35% ở Hà Nội cho rằng tham nhũng đã giảm trong năm 2019 [Lê Hồng Hiệp: 30/01 /2020]. Do đó, các chuyên gia đề nghị chuyển trọng tâm chiến dịch phòng chống tham nhũng xuống cấp thấp hơn, không chỉ tập trung vào các vụ án nghiêm trọng, đồng thời kêu gọi cải cách thể chế chính trị và pháp luật để ngăn ngừa tham nhũng thay vì chống lại hậu quả của nó. Điều này sẽ làm cho công cuộc phòng chống tham nhũng bền vững và hiệu quả hơn, ít phụ thuộc vào bất kỳ một lãnh đạo nào.

Đồng thời, việc cuộc chiến chống tham nhũng vẫn đang diễn ra với tốc độ vừa phải có thể được giải thích là do sự thận trọng của các cơ quan chức năng. Quan điểm của Nguyễn Phú Trọng mang tính biểu thị, ông cho rằng trong chuyện này “phải bình tĩnh, tỉnh táo, hết sức sáng suốt, có tầm nhìn chiến lược”, “đập chuột không cho vỡ bình”, ghi nhớ tầm quan trọng của sự ổn định chính trị trong xã hội. Do đó, chiến dịch phòng chống tham nhũng ở Việt Nam từ năm 2016 đến nay được đặc trưng bởi “cách tiếp cận chậm mà chắc, kết hợp giữa ý chí chính trị vững vàng và các chiến thuật được cân nhắc kỹ lưỡng” [Lê Hồng Hiệp: 05/07/2018]. Cũng cần lưu ý rằng chiến dịch cũng đang làm chậm hoạt động kinh tế ở một số khu vực nhất định. Vì vậy, bộ máy lãnh đạo đất nước, được đổi mới sau Đại hội XIII của ĐCSVN, muốn tìm kiếm sự cân bằng giữa chống tham nhũng và ủng hộ các sáng kiến ​​thúc đẩy tăng trưởng kinh tế [Lê Hồng Hiệp: 30/01/2020].

Cách tiếp cận này đặc biệt cần thiết trong bối cảnh đại dịch COVID-19 ngày càng trầm trọng và những hậu quả của nó đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2021.

KẾT LUẬN

Giới lãnh đạo Đảng CSVN giai đoạn 2012–2020 đã có những nỗ lực đáng kể để xác định và ngăn chặn tham nhũng trong khu vực công, trước hết là thực hiện một loạt các biện pháp để đảm bảo hỗ trợ pháp lý cho họ và đưa pháp luật phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Những nỗ lực này đã mang lại những phát triển tích cực nhất định và góp phần đưa ra ánh sáng một số vụ án nổi tiếng ở cấp cao nhất của bộ máy quyền lực. Các vụ bê bối tham nhũng đã khiến công chúng Việt Nam phẫn nộ trước quy mô cực lớn của tội phạm tài chính cấp cao, nhưng đồng thời chúng cũng góp phần củng cố quyền lực của những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chống lại chúng.

Tuy nhiên, chúng tôi phải nói rằng vẫn chưa thể đảo ngược xu hướng hiện tại. Tham nhũng đã thấm sâu vào nếp nghĩ, lề lối làm việc của cán bộ công chức, đảng viên cấp cao của ĐCSVN, tác động tiêu cực mạnh mẽ đến tình hình đất nước.

Đánh giá theo tâm trạng chung ở Việt Nam, có thể kết luận rằng đường lối mà ban lãnh đạo hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam theo đuổi nhằm thắt chặt cuộc chiến chống tham nhũng sẽ tiếp tục, nhưng dường như nó tập trung nhiều hơn vào các cơ quan đảng và chính quyền cấp cơ sở. Có thể ít xảy ra những vụ bê bối lớn hơn với các quan chức cấp cao, vì chúng đã bắt đầu gây thiệt hại nghiêm trọng cho quyền lực của đảng.

Type and hit Enter to search

Close